Hôm nay trên Vietnamnet.vn có bài viết mà nội dung nhằm nhắc nhở nhân loại biết ơn những phát minh của người Hoa Hạ. Nhưng tôi lại xác định với các bạn rằng: Chính nền văn hiến huyền vĩ của người Lạc Việt trải gần 5000 năm lịch sử mới thực sự là chủ nhân của những phát minh này.
Các bạn hãy xem nguyên văn bài viết và sau đó là phần minh chứng của tôi.
BÀI TRÊN VIETNAMNET.VN
Người Trung Hoa thật sự đã phát minh ra những gì?
Trong thế giới hiện đại, chúng ta nghiễm nhiên hưởng thụ những thành quả của khoa học công nghệ và cho rằng đấy là những lợi ích tất yếu mà vô tình quên đi “những kẻ trồng cây” từ ngàn xưa.
Ngày nay, những đường cáp quang có thể truyền một lượng thông tin khổng lồ với tốc độ ánh sáng; bạn ngồi vào xe hơi và ra lệnh cho hệ thống định vị toàn cầu đưa bạn đến nơi cần đến…Cuộc sống với chúng ta ở thế kỷ 21 thật khá dễ dàng và thuận lợi.Có được điều này chúng ta phải biết ơn những bậc tiền bối đã gieo những “hạt mầm công nghệ đầu tiên” cho sự tiến bộ của nhân loại.Có lẽ không có nền văn minh cổ đại nào có nhiều đóng góp cho sự tiến bộ của loài người hơn nền văn minh Trung Hoa. Sau đây xin giới thiệu một số phát minh vĩ đại nhất, có ảnh hưởng nhất đến quá trình phát triển của nhân loại.1. Thuốc súng
Thuốc súng chỉ là một sáng chế tình cờ? |
Có truyền thuyết cho rằng thuốc súng là sáng chế tình cờ của một nhà giả kim khi ông đang tìm phương thuốc trường sinh cho con người. Nhưng oái ăm thay, cái mà ông ta thu được lại là một trong những phương thức lấy đi sinh mạng con người nhanh nhất.Thành phần ban đầu của thuốc súng gồm nitrat kali, than chì và lưu huỳnh. Nó được giới thiệu lần đầu vào năm 1044 trong “Tuyển tập những Kỹ thuật Quân sự quan trọng nhất” do Zeng Goliang biên soạn. Theo sách này, thuốc súng đã được phát minh trước đó một thời gian, và có 3 hỗn hợp thuốc súng khác nhau được sử dụng làm pháo hiệu và pháo hoa trước khi được ứng dụng trong lĩnh vực quân sự để chế tạo các quả lựu đạn thô sơ đầu tiên.Qua thời gian sử dụng, người ta biết rằng thêm các kim loại khác nhau vào hỗn hợp thuốc súng sẽ tạo ra nhiều màu sắc đẹp rực rỡ, từ đó pháo hoa hiện đại ra đời.2. La bàn
![]() |
Nếu không có la bàn chúng ta sẽ không đi đến được nơi nào hết. |
Chiếc la bàn đầu tiên được thiết kế chỉ về hướng Nam, bởi vì lúc bây giờ người Trung Hoa xem phương Nam là phương chính, và họ muốn mở rộng bờ cõi về phương nam. Những chiếc la bàn đầu tiên được chế tạo vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, và được làm từ đá nam châm.Đá nam châm là quặng sắt từ – chúng sẽ mang từ tính khi bị sét đánh trúng và cho ra một loại khoáng chất bị hút về cả 2 cực bắc và nam. Hiện tại chúng ta vẫn chưa biết cụ thể ai là chủ nhân của ý tưởng vô cùng thông minh: dùng đá nam châm để phân biệt phương hướng; nhưng theo các bằng chứng khảo cổ thì người Trung Hoa là tác giả của phát hiện này. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy những chiếc môi làm từ loại đá này có thể cân bằng trên một cái bảng dò, giúp các thầy bói thời đó dò tìm phương hướng tốt.3. Giấy
![]() |
Nếu không có giấy, sẽ không có bản đồ. Nếu không có bản đồ, làm sao khám phá thế giới. |
Hiện vẫn chưa rõ ai là người đầu tiên đưa ra ý tưởng chuyển những suy nghĩ trong đầu thành ngôn ngữ viết. Có 3 giả thiết cho ý tưởng này hoặc là thuộc về người Sumerian ở Mesopotamia, hoặc là người Harappa ở khu vực Afghanistan ngày nay, hoặc là người Kemite ở Ai Cập. Ngôn ngữ viết xuất hiện lần đầu tiên cách đây khoảng 5 ngàn năm, còn nếu tính luôn cả những tranh vẽ trong hang động thì thời gian mà ý tưởng được chuyển thể thành ngôn ngữ ký tự thậm chí còn sớm hơn rất nhiều.Nhưng mọi thứ đã thay đổi từ khi một người Trung Quốc tên Cai Lun phát minh ra mẫu giấy đầu tiên, là tiền thân của các loại giấy hiện đại ngày nay. Trước phát minh này của Cai Lun, người Trung Quốc thường viết trên những thanh tre hoặc những dải lụa; cho đến năm 105 sau công nguyên, Cai Lun đã nghĩ ra cách tạo một hỗn hợp sợi gỗ và nước, rồi sau đó nén chúng lên một miếng vải dệt. Những lỗ li ti trên mảnh vải sẽ thấm hết nước trong hỗn hợp hồ nhão, để lại một mặt giấy thô và khô ráo. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa rõ Cai Lun đã viết điều gì trên mảnh giấy đầu tiên ông làm được.4. Mì
![]() |
Món ăn có tuổi thọ 4 ngàn năm. |
Nếu mì sợi là món ăn yêu thích của bạn, bạn phải cám ơn người Trung Quốc, chứ không phải người Ý, vì đã sáng chế ra món ăn này. Vào năm 2006, khi các nhà khảo cổ khai quật 1 khu dân cư 4 ngàn năm tuổi tại Lajia, tỉnh Qinghai (gần biên giới Tây Tạng), họ đã phát hiện được một cái tô bị lật úp bên dưới có những sợ mì. Mì sợi có lẽ là phát minh cổ xưa nhất của người hiện đại; nó được làm từ 2 loại hạt kê, và cả 2 loại hạt này đã được người Trung Hoa trồng từ cách đây 7 ngàn năm; và ngày nay họ vẫn dùng chúng để chế tạo sợi mì.5. Xe cút-kít
![]() |
Dụng cụ thô sơ vô hại này đã từng là một công cụ chiến tranh. |
Người Trung Hoa cũng góp phần làm giảm gánh nặng lao động cho con người với việc chế tạo chiếc xe cút-kít. Vào khoảng thế kỷ thứ 2 SCN, một đại tướng triều Hán tên Jugo Liang được cho là đã nghĩ ra ý tưởng làm một chiếc xe tải có 1 bánh xe dùng để chuyên chở những đồ nặng. Tuy nhiên ông đã không thiết kế cho chiếc xe này 2 tay cầm; vì vậy sau này chiếc xe được cải thiện và người ta đã thêm vào 2 tay cầm để thuận tiện cho việc điều khiển. Với sáng tạo này, Jugo là người “đi trước” người Châu Âu khoảng 1.000 năm.Ban đầu, chiếc xe được sáng chế để phục vụ cho quân đội. Nó được dùng để làm các rào chắn di động, và dùng để chuyên chở vũ khí. Người Trung Hoa đã giữ bí mật phát minh này trong nhiều thế kỷ.Cũng có một câu chuyện dân gian kể rằng người phát minh ra chiếc xe cút-kít là một người nông dân tên Ko Yu ở thế kỉ thứ 1 trước CN. Mặc dù tính xác thực của câu chuyện còn chưa rõ, nhưng có 1 điểm chung giữa Jugo và Ko: cả 2 đều giữ bí mật phát minh của mình bằng cách mô tả nó bằng…mật mã.
6. Máy ghi địa chấn
![]() |
![]() |
Nhà thiên văn Chang Heng và chiếc địa chấn kế đầu tiên được ông phát minh. |
![]() |
Máy đo địa chấn Richter. |
Mặc dù đến năm 1935, thang đo địa chấn Richter mới được Charles Richter chế tạo, nhưng trước đó từ lâu người TQ đã tìm cách chế tạo chiếc máy dò động đất đầu tiên của thế giới – địa chấn kế. Nhà thiên văn Chang Heng đã phát minh ra một địa chấn kế vào thời nhà Hán khoảng đầu thế kỷ thứ 2 SCN, và đó là một dụng cụ bằng đồng rất tinh xảo.Đây là một chiếc bình bằng đồng khá nặng; bên ngoài có gắn 9 con rồng cách đều nhau; phía dưới mỗi con rồng là một con ếch há mồm, mặt ngước lên trên. Một quả lắc được treo bên trong chiếc bình, nó sẽ đứng yên cho tới khi nào có một chấn động. Chấn động này sẽ kích hoạt một đòn bẩy làm chuyển động 1 hòn bi trong miệng của con rồng nằm ở phía hướng đến tâm chấn. Hòn bi này sẽ rơi ra khỏi miệng rồng và rớt thẳng xuống miệng con ếch phía dưới. Mặc dù chiếc địa chấn kế đầu tiên này có vẻ thô sơ, nhưng phải đến 1.500 năm sau người phương Tây mới phát minh ra phiên bản địa chấn kế của họ.7. Rượu
![]() |
Đây là thứ đồ uống không thể thiếu trong các cuộc vui. |
Những người thích “nhậu” nên cám ơn người TQ về các phát hiện ra cồn ethanol và isopropyl, cũng như bia, rượu vang, và rượu mạnh. Đây là các thứ đồ uống không thể thiếu trong các cuộc vui của chúng ta ngày nay. Người ta cho rằng việc lên men rượu là kết quả đúc kết từ nhiều quá trình chế biến thực phẩm tương tự có từ trước đó.Theo một số ghi chép, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 3 TCN, người TQ đã biết cách tinh chế các loại thực phẩm như dấm và nước tương đậu nành bằng cách cho lên men và chưng cất. Rượu cồn ra đời không lâu sau đó. Tuy nhiên, các phát hiện khảo cổ gần đây cho thấy việc cho lên men thực phẩm và việc sáng tạo ra đồ uống có cồn thậm chí đã có từ trước đó rất lâu. Những mảnh vỡ của một chiếc bình gốm 9.000 năm tuổi có các dấu vết còn sót lại của cồn đã được tìm thấy tại tỉnh Henan. Phát hiện này đã chứng tỏ rằng người TQ là những người đầu tiên biết nấu rượu (trước đây người ta cho rằng người Arab đã sáng tạo ra thức uống có cồn, tuy nhiên phải đến khoảng 1.000 năm sau họ mới biết đến rượu).
8. Diều
![]() |
Diều là một phần không thể thiếu trong văn hóa TQ hơn 2.400 năm qua. |
Hai người đàn ông sống ở TQ thời cổ đại chia nhau sở hữu một trong những “bằng sáng chế” nổi tiếng nhất của TQ. Vào khoảng thế kỷ thứ tư TCN, Gongshu Ban và Mo Di, một nhà bảo trợ nghệ thuật và một triết gia, đã sáng chế ra một con diều có hình dạng giống một con chim có thể bay lượn trong gió. Sáng chế này của họ sau đó nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Về sau này, người ta đã cải tiến và thêm vào thiết kế ban đầu của con diều một vài chi tiết để sử dụng nó cho một số mục đích khác ngoài mục đích giải trí. Chẳng hạn như dùng diều để câu cá ở những vùng nước khó tiếp cận. Diều còn được ứng dụng trong quân đội khi người ta dùng chúng như những chiếc “máy bay” không người lái để thả những quả đạn vào công sự của kẻ thù. Vào năm 1232, người TQ đã sử dụng những con diều để rải truyền đơn vào một trại giam tù binh chiến tranh của Mông Cổ, khuyến khích những tù binh TQ đang bị giam giữ ở đây nổi loạn và cướp trại.
9. Dù lượn
![]() |
Dù lượn đã từng được dùng như một hình phạt ở TQ xưa. |
Vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6 SCN, người Trung Hoa đã cố gắng chế tạo một con diều sao cho đủ lớn và tuân theo nguyên tắc khí động học để có thể nâng được một người có cân nặng trung bình. Không lâu sau đó, người ta đã quyết định không buộc dây cho con diều lớn này để xem nó có thể làm được chuyện gì, và đó chính là phiên bản dù lượn đầu tiên của thế giới. Nhưng vào ngày đó người ta không dùng dù lượn này để tìm kiếm cảm giác mạnh mà nó được sử dụng như một hình thức tra tấn. Các hoàng đế ra lệnh trói các phạm nhân hay các tù binh chiến tranh vào những con diều này và bắt họ nhảy xuống những vách đá. Đã có một người sống sót sau khi bay được 2 dặm và hạ cánh an toàn. Với sáng chế này, người TQ đã đi trước người Châu Âu đến 1335 năm.
10. Lụa
![]() |
Con đường tơ lụa. |
Các đế chế Mông Cổ, Hy Lạp, và La Mã một thời đã từng rất “nóng mặt” với các phát minh quân sự của Trung Quốc như thuốc súng. Tuy nhiên, tơ lụa lại chính là phát minh giúp Trung Quốc cổ đại “hòa giải” với các đế quốc hùng mạnh khác.
![]() |
Một xưởng sản xuất lụa ở TQ xưa. |
Lụa TQ lúc bấy giờ được ưa chuộng đến nỗi nó đã giúp kết nối TQ với các quốc gia khác trên thế giới thông qua việc buôn bán sản phẩm này. Tơ lụa TQ đã “dệt” nên con đường tơ lụa huyền thoại một thời, xuất phát từ TQ sang đến tận Địa trung hải, châu Phi, Trung Đông và châu Âu. Phương pháp sản xuất loại tơ tằm tự nhiên của người TQ đã tồn tại từ cách đây 4.700 năm.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy một cuộn tơ trong một lăng mộ được xây vào thời Laingzhu (kéo dài từ năm 3330 đến năm 2200 TCN). Người TQ lúc bấy giờ đã tuyệt đối giữ bí mật và bảo vệ cẩn thận phát minh của họ, cho tới khi các nhà truyền giáo châu Âu phát hiện ra trứng tằm và đưa chúng về phương.
Đỗ Quyên tổng hợp
————————————————————-
BÌNH LUẬN CỦA THIÊN SỨ
Sừ Ký Tư Mã Thiên đã xác định “Nam Dương tử là nơi Bách Việt ở”. Cho đến thế kỷ thứ III BC, biên giới của dân tộc Hán vẫn không vượt quá bờ nam sông Dương Tử. Chúng ta có thể thấy rất rõ điều này qua chính những bản đồ của những nhà sử học thuộc đất nước Trung Hoa hiện đại và quốc tế (Xem “Lịch sử Trung Quốc 5000 năm”). Nền văn minh Lạc Việt sụp đổ ở đây vào thế kỷ thứ III BC (2879 – 258 BC), sau một thời huy hoàng của dân tộc Việt. Văn minh Hoa Hạ đã tiếp thu được những di sản của nền văn minh này và Hán hóa trải hơn 2000 năm. Bởi vậy, rất tiếc, những cái gọi là phát minh nói trên – ngoại trừ máy ghi địa chấn được phát minh vào đời Đường – không có sở cứ nào của người Trung quốc cả. Nhưng cũng cần xác định rằng: Nó cũng dựa trên nền tảng tri thức cổ còn lại của người Lạc Việt bên bờ nam Dương Tử ngày xưa. Bây giờ chúng ta xét từng mục một:
1 – Thuốc súng.
Bài trên viết.
“Nó được giới thiệu lần đầu vào năm 1044 trong “Tuyển tập những Kỹ thuật Quân sự quan trọng nhất” do Zeng Goliang biên soạn. Theo sách này, thuốc súng đã được phát minh trước đó một thời gian, và có 3 hỗn hợp thuốc súng khác nhau được sử dụng làm pháo hiệu và pháo hoa trước khi được ứng dụng trong lĩnh vực quân sự để chế tạo các quả lựu đạn thô sơ đầu tiên”.
Đây là tư liệu cổ nhất, nhắc đền phát minh thuốc súng là của người Hán. Cứ cho rằng trước thế kỷ XI vài trăm năm. Nhưng có thể nói rằng: Từ thời Tam Quốc, người ta đã dùng thuốc nổ trong chiến tranh. Thí dụ trận đánh trong hang Thương Phương giữa Gia Cát Lượng và Tư Mã Ý. Hay trận chiến giữa Gia Cát Lượng với dân tộc Thiểu số ở Tây Nam Trung Hoa – là Mạch Hoạch. Hoặc điển hình hơn là trận hải chiến Xích Bích. Tất nhiên, những hỏa thuyền của liên quân Ngô Thục không thể chỉ chất củi khô và rơm rạ để phát huy sức mạnh. Nó cần có chất gây cháy nổ như Diêm sinh, diêm tiêu và than min. Đây chính là tiền đề của thuốc nổ , hoặc gây cháy nhanh với một công thức như sau: 10% diêm sinh, 30% diêm tiêu còn lại là than cây xoan nghiền mịn. Gia Cát Lượng là người ở Nam Dương Tử. Gia Cát Lượng thì không tự nhận là người phát minh ra thuốc súng. Vậy chứng tỏ rằng: Nền tảng tri thức của vùng này chính là tiền đề cho phát minh của Gia Cát Lương. Rất tiếc, một dân tộc đã mất nước, nên những tư liệu lịch sử liên quan đến Bách Việt rất mơ hồ và gần như không còn gì cả. Tuy nhiên chúng ta có quyền nghi ngờ điều này. Tư liệu tuy không có, nhưng những chứng cứ gián tiếp khiến cho một suy luận hợp lý cho thấy người Trung quốc không phải là chủ nhân phát minh ra thuốc súng. Tất nhiên, cá nhân tôi thừa nhận tư liêu trên là trung thực và khách quan với nội dung của nó. Nhưng điều đó chỉ là sự ghi nhận hiện tượng xảy ra vào thời gian trước thế kỷ XI mà thôi, không phải là sự chứng minh sự phát minh ra thuốc súng của văn minh Hoa Hạ. Có thể người Hoa Hạ đã dựa trên căn bản nền tảng phát minh thuốc nổ có từ lâu trong cộng đồng Bách Việt ở Nam Dương tử và chế ra thuốc súng dùng trong quân sự và được ghi nhận trong tài liệu này.
.
2. La bàn
La bàn thì rõ ràng không thể do người Trung quốc phát minh ra. Chúng ta xem lại hai tư liệu liên quan đến sự phát minh ra la bàn vốn được coi là của người Trung Hoa.
1 – Truyền thuyết ghi nhận trong trận đánh Hoàng Đế Xuy Vưu tại Trác Lộc (Trên 5000 năm cách ngày nay). Xuy Vưu làm phép khiến trời đất mù mịt. Một vị đại thần của Hoàng Đế phát minh ra cái xe chỉ nam và nhờ cái xe này, Hoàng Đế chỉ huy quân đội, phá tan đạo quân của Xuy Vưu.
2 – Sứ giả Việt Thường đến kinh đô cống vua Nghiêu một con rùa lớn (3000 năm cách ngày nay), trên mai rủa có ghi việc trời đất mở mang bằng Khoa Đẩu tự. Vua Nghiêu sai tặng sứ Việt thường chiếc La bàn để định hướng về nước.
Sau hai tư liệu trên thi không có một tác giả Trung Hoa nào tự giới thiệu là người phát minh ra la bàn.
Chúng ta cũng biết rằng: Chính các nhà sử học Trung Quốc cũng cho rằng lịch sử văn minh Hoa Hạ chỉ rõ ràng trong khoảng thế kỷ thứ VIII BC. Như vậy, hai hiện tượng trên chỉ là huyền thoại. Nếu Việt sử thời Hùng Vương bị coi là những huyền thoại không đáng tin cậy và bị “Hầu hết các nhà khoa học trong nước” với “cộng đồng khoa học quốc tế” xúm lại phủ định – thì – nhân danh chính tiêu chí này của cái “hầu hết” và “công đồng” nói trên – cá nhân tôi có quyền một cách công bằng đặt lại vấn đề huyền thoại Trung Hoa đó có đáng tin cậy không?
Đừng có phản biện cách đặt vấn đề này nha – khi đây chính là tiêu chí của các vị. Quí vị “cộng đồng” và “hầu hết” thì có thể muốn nói gì thì nói. Còn tôi thì không dễ dàng như vậy. Bởi vậy, tôi không thể nói bừa được. Thậm chí không được phép sai.
Trước đây tôi vẫn im lặng về những việc này mà tôi chỉ tập trung vào chứng minh Việt sử 5000 năm văn hiến. Nhưng nay thì tôi nghĩ cần phải làm sáng tỏ toàn diện mọi vấn đề nhân danh khoa học. Cái “hầu hết” và “cộng đồng” cũng nhân danh khoa học mà. Có phải thế không nhỉ? Mà khoa học thì không thể thông tin một chiều chứ nhỉ?
Có thể nói rằng: Cho đến ngày hôm nay, tất cả mọi người có chút ít học vấn trở lên, đều không hề hoài nghi việc nền văn minh Hán sáng tạo ra cái la bàn. Mặc dù chẳng có bằng chứng nào cả ngoài hai truyền thuyết nói trên. Bài báo trên là một thí dụ cho về sự tiếp thu một kiến thức chỉ để khoe khoang trên bàn nhậu và giải thích với phụ nữ xinh đẹp. Bài báo viết:
Những chiếc la bàn đầu tiên được chế tạo vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên, và được làm từ đá nam châm.
Trước hết, thế kỷ thứ IV BC chính là thời điểm bắt đầu cho sụp đổ của nhà nước Văn Lang bên bờ nam Dương Tử. Và xác nhận của bài báo về thời điểm phát minh la bàn là thời điểm mà chính sử Trung Quốc tương đối rõ ràng. Vậy tại sao nó không xác định được tác giả? Nếu thời điểm lịch sử mà bài báo trên được xác định là đúng thì vấn đề đặt ra là: Tại sao người Trung Quốc phải đặt v/d “sáng tạo” ra hẳn hai truyền thuyết nói trên – với thời gian lịch sử cách nhau hàng thiên niên kỷ? Vậy cái la bàn thật sự được coi là của người Hoa Hạ – có kim sắt nhiễm từ chạy trên đó như ngày nay – phải sáng tạo sau đó và vào thời kỳ nào mà lịch sử Trung Hoa không hề ghi nhận?
Khoa phong thủy đã được chứng minh rằng: Nó thuộc về nên văn hiến Lạc Việt một thời huy hoàng bên bờ nam Dương Tử. Tất yếu cái la bàn là vật bất ly thân của môn này không thể ra đời trong văn minh Hán.
Quí vị cũng cần quán xét một hiện tượng là: Kim tự tháp Keop nổi tiếng của Ai Cập có đường chéo góc trùng khớp hoàn toàn với kinh tuyến Bắc Nam của địa cầu và là kinh tuyến đi qua đất liền dài nhất thế giới. Làm thế nào để họ xác định chính xác trục Bắc Nam mà xây nên Kim Tự tháp vĩ đại này? Tất nhiên, mong rằng đừng có vị nào cãi cùn là họ kéo một sợi dây nối từ cực Bắc đến cực nam của Địa cầu và xây theo sợi dây đó nhé.
Cũng có ý kiến cho rằng: Người Ai Cập căn cứ vào sao Bắc Đẩu để xác định phương Bắc. Mới nghe thì có vẻ có lý và có nhiều ngươi đồng tình. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là trục Địa cầu nối kinh tuyến dài nhất theo hướng Bắc Nam, chứ không phải phương Bắc. Làm sao người Ai Cập biết trục Địa Cầu nằm đúng phương Bắc Nam mà nhìn sao Bắc Đẩu, nếu không có la bàn – hoặc một cái gì đó tương tự như vậy – để xác định phương hướng các vì sao trên bầu trời với một kiến thức thiên văn vượt trội . Điều này đã chứng tỏ qua vị trí các vì sao tương quan với các Kim Tự Tháp.
Ở đây, tôi cũng cần lưu ý thêm quý vị là: Sử Ký Tư Mã Thiên dành hẳn một truyện cho những thày chuyên coi ngày, tựa là “Nhật giả liệt truyện”, nhưng lại không hể nhắc tới khoa Phong Thủy vốn được coi là xuất hiện từ thế kỷ thứ III BC – tức là trước cả Tư Mã Thiên hàng 100 năm – như tài liệu trên ghi nhận. Ông ta cũng không hề có một chữ nào nói đến sự ứng dụng khoa Phong thủy trong các công trình xây cất của triều đình Hán. Tất nhiên, ông cũng không hề xác nhận la bàn là do phát minh của văn minh Hoa Hạ. Đừng bảo là ông ta quên nhé.
Về việc này, trong một buổi nói chuyện về cội nguôn kinh Dịch, đã có một “kẻ sĩ” sấn sổ hỏi tôi với vẻ mặt mãn nguyện và đắc thắng: Anh có văn bản nào xác định tác giả Kinh Dịch là của Việt Nam không? Anh có di vật khảo cổ nào chứng minh điều đó không? Tôi trả lời ngay và không cần tư duy – vì tôi đã lường trướng điều này từ lâu rồi – câu trả lời gọn lỏn: “Tôi không có một văn bản và di vật khảo cổ nào xác định điều này. Ít ra là đến lúc này. Nhưng di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử. Văn bản nếu có thì số phận nó sẽ ra sao khi Nam Dương Tử trải hơn 2000 năm Hán hóa. Nhưng những mâu thuẫn trong nội dung và lịch sử Kinh Dịch đã chứng tỏ nó không thể thuộc về văn minh Hán.
Trên blog này, tôi muốn nói thẳng vào mặt những thằng ngu ấy biết rằng: Cho dù bây giờ có một văn bản tối cổ xác định rằng vua Nghiêu Thuấn là của người Việt và Kinh Dịch là của Việt Nam thì điều đó nó cũng chỉ đặt ra được một giả thuyết có cơ sở dựa trên di vật khảo cổ và văn bản đó, chứ nó cũng không chứng minh được Kinh Dịch là của Việt Nam, nếu như người ta không đủ khả năng phân tích để nhận thấy những yếu tố mâu thuẫn trong lịch sử và nội dung kinh Dịch khiến nó không phải của người Hán.
Trong lớp Phong Thủy Lạc Việt II, một học viên đã viết tiểu luận, chứng minh rằng: “Ông Khiết – một vật trấn yểm lợi hại của Phong Thủy Lạc Việt – chính là biểu tượng minh chứng la bàn là của người Việt”. Nhưng vì nó mang tính giải mã một biểu tượng, nên tôi còn cân nhắc cho công bố sự minh chứng này. Tất cả cũng chỉ vì giới khoa học quốc tế chưa có một tiêu chí xác định cho một phương pháp giải mã đúng. Tôi không muốn những thằng ngu – luôn rêu rao rằng: Thiên Sứ lấy huyền thoại chứng minh cho lịch sử – kiếm cớ sinh sự.
Ở đây, tôi cần đặt thêm một vấn đề là: Lịch sử xác minh người Ai Cập đã tìm ra sắt vào thế kỷ thứ VIII BC và thời đại đồ sắt đã xuất hiện ở nam Dương Tử từ thế kỷ VIX BC, bằng chứng những di vật khảo cổ là những chiếc vòng sắt tìm thấy ở biên giới bắc Thái Lan theo tư liệu của tác giả “Địa đàng phương Đông – một quá khứ bị lãng quên” đã cho thấy sắt phổ biến từ lâu ở nền văn minh nam Dương Tử. Điều này trùng khớp với sự tích Thánh Gióng chống giặc Ân Thương với vũ khí bằng sắt. Bởi vậy, với đồ sắt đã có từ lâu như vậy, không có lý do gì mà sau đó hơn 1200 năm sau, người Trung Quốc trưng cái la bàn bằng đá nam châm để xác định la bàn là phát minh của họ cả.
La bàn, một phương tiện không thể thiếu được trong khoa Phong Thủy, không thể là của người Hán khi môn Phong thủy và cả thuyết Âm Dương Ngũ hành không thuộc về nền văn minh này.
.
3 – Giấy.
Người viết bài báo trên đã dùng phiên âm latin để đọc tên người phát minh ra giấy được coi là của Trung Quốc, – một cái tên nghe dễ thuyết phục và ấn tượng, vì nó không được phiên âm Hán Việt – nhằm chứng minh cho tính đặc Tàu của tên người phát minh: “Cai Lun” . Vâng! Rất Tàu. Híc! Thực ra phiên âm Hán Việt của người này là Thái Luân. Bài báo trên cũng không nói rõ Thái Luân phát minh ra giấy vào thời gian nào. Nhưng rất tiếc cho tác giả. Thái Luân là người Việt ở Nam Dương Tử và ông ta được coi là phát minh ra giấy vào đầu thời Đông Hán (Xem “Bách Việt tiên hiền chí”). Nhưng có thể xác định rằng: Dùng lá cây làm phương tiện chuyển tải văn tự đã có từ thời tối cổ trên thế gian này. Cho đến ngày nay, một số chùa chiền Khơ Me ở Việt Nam vẫn còn tục dùng lá làm phương tiện chuyển tải chữ viết. Bắt nguồn từ lá làm phương tiện chuyển tải chữ viết, dẫn đến việc phát minh ra giấy làm từ bột lá là một khoảng cách không dài về khả năng tư duy. Người Ai Cập đã phát minh ra giấy trên một loại cây sậy gọi là Papyrus trước cả Thái Luân. Trên trống đồng Bách Việt cũng ghi rõ hình ảnh của người giã bột giấy (Xem “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”). Những bức tranh dân gian Việt thể hiện nội dung tối cổ với một ý nghĩa khác hẳn văn minh Hán , miêu tả về những bí ẩn của minh triết Đông phương, cho thấy người Việt phải làm ra giấy trước thời Bắc Thuộc lần thứ nhất, mới có thể lưu lại những bức tranh như vậy. Thái Luân – Cai lun – chỉ là người trao công nghệ làm giấy của Bách Việt lên vua Hán mà thôi. Và dù sao thì ông ta cũng là người Việt.
Điều này cũng tương tự như Trần Đoàn Lão Tổ dịch ra tiếng Hán cuốn Tử Vi Đẩu số và dâng cho vua Tống . Sau đó Tử Vi bằng tiếng Hán được phổ biến trong xã hội Hán. Nghiễm nhiên ông ta là người sáng tạo ra môn Tử Vi, mặc dù cho đến bây giờ, cả cái thế giới này chẳng hiểu phương pháp dự đoán của Tử Vi xuất phát từ một thực tại nào. Nhiều thằng ngu đến mức độ thế này – Chỉ cần để sản xuất ra một cái bật lửa ga, cũng cần một nền tảng tri thức xã hội về hóa dầu, hóa học, kỹ thuật cơ khí…vv…., Nhưng để đẻ ra cả một phương pháp dự đoán với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thể hiện một tư duy trừu tượng cao cấp với những quy ước chặt chẽ thì chỉ cần “Trực ngộ tâm linh”. Vậy mà không ít người tin như “sấm”. Ngu cũng vừa phải thôi. Ngu quá chịu không nổi. Thiên Sứ này thấy cuốn Tử Vi nào lạ cũng muốn mua xem. Nhưng mở ra mà thấy giới thiệu Trấn Đoàn Lão tổ đẻ ra môn Tử Vi thì lập tức trả lại trên kệ sách. Bởi vì chắc chắn cuốn sách đó không có gì mới lạ đáng xem.
Xã hội Trung Hoa cổ đại không hề có nền tảng tri thức xã hội làm cơ sở phát minh ra giấy. Ngoại trừ sau đó họ chiếm đoạt được nền văn minh Lạc Việt ở Nam Dương Tử từ thế kỷ thứ IV BC.
Bài trên viết:
Nếu không có giấy, sẽ không có bản đồ. Nếu không có bản đồ, làm sao khám phá thế giới.
Đúng quá! Vậy kiến thức của người Ai Cập dựng nên Kim Tự Tháp – một hình thể nhân tạo với một tư duy trừu tượng rất sâu sắc về cả kiến thức thiên văn, địa lý rất cao cấp và vô cùng đồ sộ được chuyển tải bằng cái gì? Viết trên đất sét àh? Cả thuyết Âm Dương Ngũ hành với sự ứng dụng rộng khắp trong mọi lĩnh vực của cuộc sống viết bằng gì khi kiến thức trở thành phổ biến? Viết lên mai rùa cho đến khi Văn Lang sụp đổ àh? Nếu thế thì chắc rùa trên thế giới không còn con nào. Sứ giả Việt thường dâng vua Nghiêu con rùa ghi việc trời đất mở mang. Lạy Chúa! Viết bằng chữ chứ gì nữa.
Những tờ giấy đầu tiên viết trên đó bằng văn Khoa Đẩu! Hiểu chưa? Đấy là chữ Thiên Thư mà các sĩ phu Tàu phải xác nhận đấy! (Xem Thủy Hử). Chữ Khoa Đẩu hiện nay vẫn còn dấu tích ở Đài Loan và các vùng cao của Việt Nam. Gần đây, nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền đã chứng minh rằng: Đây chính là chữ Việt cổ.
4. Mì
Bột mì là thực phẩm chính của người Trung Hoa cho đến ngày nay và của cả người phương Tây. Điều này không cần bản cãi. Nhưng vấn đề là sự phát minh ra mì sợi thì có phải là của người Trung Quốc không? Họ căn cứ vào đâu để chứng minh điều này? Chúng ta xem lại đoan văn liên quan ở trên:
Nếu mì sợi là món ăn yêu thích của bạn, bạn phải cám ơn người Trung Quốc, chứ không phải người Ý, vì đã sáng chế ra món ăn này. Vào năm 2006, khi các nhà khảo cổ khai quật 1 khu dân cư 4 ngàn năm tuổi tại Lajia, tỉnh Qinghai (gần biên giới Tây Tạng), họ đã phát hiện được một cái tô bị lật úp bên dưới có những sợi mì.
Tôi hoàn toàn nghi ngờ tư liệu này. Bởi vì tôi không tin những phần tử hữu cơ thực vật đã qua chế biến và ngậm trong nước sôi như những sợi mì này – tức là đã bị phân hủy cơ chế tế bào của nó – và bị chôn xuống đất có thể tồn tại hơn 4000 năm. Vô lý đến cùng cực. Nếu cứ cho rằng những di vật khảo cổ tìm được là những sợi mỳ kia là có thật, thì những chứng cở hợp lý liên quan cũng bác bỏ điều này. Vì vậy, vấn đề đặt ra việc chế biến ra sợi mỳ có phải bắt đầu từ văn minh Hoa Hạ không? Với tôi thì hoàn toàn không.
Người Việt có một món ăn mà trên thế giới này hầu như không thấy có ở các dân tộc ăn gạo – đó chính là sợi bún. Tôi đã từng làm trục cắt mì cho các cơ sở chế biến mì sợi của những gia đình người Hoa gia công mì sơi cho nhà nước vào thời bao cấp. Tôi thấy rằng để chế ra những sợi mỳ thì công nghệ đơn giản hơn nhiếu so với chế ra sơi bún. Việc chế tạo ra những sợi bún của ẩm thực Việt đòi hỏi một quy trình rất phức tạp trong sử lý bột ướt (Chứ không phải bột khô như quy trình tạo mì sợi). Tất nhiên, điều này cho thấy sự vượt trôi của ẩm thực Việt từ thời xa xưa so với ẩm thực Trung Hoa. Vì dân tộc Hán không ăn gạo.
Cho đến ngày hôm nay, dân tộc Việt là dân tộc duy nhất trên thế giới dùng thực phẩm làm biểu tượng văn hóa. Đó chính là chiếc bánh chưng, bánh dầy . Trong cuộc thi tài mà lịch sử ghi nhận từ thời Hùng Vương dựng nước ấy, tất nhiên đâu chỉ có cặp sản phẩm duy nhất là chiếc bánh chưng, bánh dày. Cho dù Trần Quốc Vương cố tình giải thiêng linh vật của nền văn minh Việt (Khái niệm “giải thiêng” này là của Trần Quốc Vượng trong bài viết của ông ta) – thì cặp bánh chưng, bánh dày dùng làm biểu tượng văn hóa Việt là không thể phủ nhận. Điều này chứng tỏ rằng: Từ ngàn năm trước Việt tộc đã đạt trình độ rất cao cấp trong ẩm thực, nên mới có thể dùng thực phẩm làm biểu tượng văn hóa. Cho đến ngày hôm nay – khi tôi đang gõ những dòng chữ này – chưa có một nền văn minh hiện đại nào có biểu tượng văn hóa bằng thực phẩm.
Bởi vậy, cho dù cả cái thế giới này, xúm vào hạ bệ nền văn hiến Việt với sự hưởng ứng của cái gọi là đám “hầu hết” trong nước cũng chẳng thể nào xóa bỏ được những thực tế khách quan đang tồn tại trong văn hóa Việt, từ thời Hùng Vương dựng nước.
Đến đây, tôi không thể không nói tới hiện tượng các báo mạng chính thống trong nước lên tiếng về suy thoái của văn hóa và giáo dục Việt. Nhưng không ít trong số những học giả đang lên tiếng ầm ĩ ấy, lại là kẻ vô tình – tôi chưa nói đến cố ý – đang xóa sổ nền văn hóa này. Thí dụ như Trần Quốc Vương với bài giải thiêng cặp bánh chưng, bánh giày. Hoặc những kẻ khoác áo học giả vênh váo đòi phục hồi chữ Hán trong trường học. Chữ Hán là một phương tiện rất cần thiết trong việc nghiên cứu cổ văn hóa sử. Nó có thể là môn học bắt buộc có tính chuyên ngành. Nhưng không thể ép học sinh phổ thông học lại thứ chữ bị áp đặt trong thời nô lệ Bắc phương này. (Xem bài nói về hội thảo ngôn ngữ Việt gần đây ở T/p HCM). Nếu vậy thì sao không đặt vấn đề học tiếng Pháp luôn. Những sự dốt nát và sai lầm từ ngay cả những trí thức gọi là cao cấp như vậy, làm sao mà khá được. Bởi vậy, hoàn toàn không phải ngẫu nhiên khi Winldlavender – một thành viên của diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn – hồ hởi nói với tôi từ mấy năm trước: “Ông bộ trưởng giáo dục mới có quyết tâm cải cách giáo dục, em hy vọng nền giáo dục Việt sẽ sáng sủa hơn”. Tôi trả lời rằng: Còn anh và còn em đây. Nếu như người ta vẫn dạy học sinh và phổ biến quan niệm “Thời Hùng Vương chỉ là liên minh 15 bộ lạc” với những người dân “ở trần đóng khố” thì sẽ chẳng có ông bộ trưởng nào làm nổi điều này. Điều này chẳng có gì là bí ẩn, hoặc tâm linh cả. Nhưng hãy chịu khó suy luận thì sẽ thấy ngay nguyên nhân của vấn đề.
Kẻ không chịu suy luận là người cuồng tín.
Kẻ không dám suy luận là người nô lệ.
Kẻ không thể suy luận là người ngu xuẩn.
Quay trở lại với sự phát minh ra mỳ sợi được coi là của người Hán, nhưng đó cũng chỉ là tiếp thu một cách đơn giản sự chế biến phát minh ra sợi bún của người Việt, khi dân tộc Việt đã có một nghệ thuật ẩm thực vào bậc thày của thế giới tính đến ngày hôm nay – qua biểu tượng bánh chưng bánh dày. Điều này còn được chứng tỏ rằng: Ngay địa điểm tìm thấy cái gọi là “những sợi mỳ đó” cách đây 4000 năm có phải là địa bàn sinh sống của người Hán không, còn phải xét lại.
Nước Văn Lang: Bắc giáp Đông Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Đông giáp Đông Hải và Tây giáp Ba thục.
5 – Xe cút kít
Chúng ta xem lại nguyên văn đoạn cho rằng xe cút kít là phát minh của văn minh Hán:
![]() |
Dụng cụ thô sơ vô hại này đã từng là một công cụ chiến tranh. |
Người Trung Hoa cũng góp phần làm giảm gánh nặng lao động cho con người với việc chế tạo chiếc xe cút-kít. Vào khoảng thế kỷ thứ 2 SCN, một đại tướng triều Hán tên Jugo Liang được cho là đã nghĩ ra ý tưởng làm một chiếc xe tải có 1 bánh xe dùng để chuyên chở những đồ nặng. Tuy nhiên ông đã không thiết kế cho chiếc xe này 2 tay cầm; vì vậy sau này chiếc xe được cải thiện và người ta đã thêm vào 2 tay cầm để thuận tiện cho việc điều khiển. Với sáng tạo này, Jugo là người “đi trước” người Châu Âu khoảng 1.000 năm.Ban đầu, chiếc xe được sáng chế để phục vụ cho quân đội. Nó được dùng để làm các rào chắn di động, và dùng để chuyên chở vũ khí. Người Trung Hoa đã giữ bí mật phát minh này trong nhiều thế kỷ.Cũng có một câu chuyện dân gian kể rằng người phát minh ra chiếc xe cút-kít là một người nông dân tên Ko Yu ở thế kỉ thứ 1 trước CN. Mặc dù tính xác thực của câu chuyện còn chưa rõ, nhưng có 1 điểm chung giữa Jugo và Ko: cả 2 đều giữ bí mật phát minh của mình bằng cách mô tả nó bằng…mật mã.
Lại những dẫn chứng với tên tuổi cụ thể phiên âm latin cho có vẻ đặc Tàu và còn làm ra vẻ bí ẩn “giữ bí mật phát minh” một cách mập mờ, khiến người đọc cứ tưởng người Tàu phát minh ra xe cút kít thật, nhưng tại chưa muốn nói ra. Trong khi đó, chỉ cần một tư duy đơn giản cũng đủ để chế tạo ra cái xe này. Đã vậy lại còn mập mờ là “giữ bí mật phát minh” nữa chứ. Vậy họ làm ra cái xe cút kít để thờ àh? Nếu đã đẩy ra đường thì ai mà chẳng nhìn thấy. Chỉ những phát minh trừu tượng và cao cấp mới cần giữ bí mật. Mà cao cấp đến siêu đẳng thì cũng chằng cần giữ bí mật. Bởi vì muốn ăn cắp cũng phải đủ “chình độ” mới ăn cắp nổi. Thực chất cái gọi là xe cút kít này chỉ là hình ảnh thu nhỏ của chiến xa hai bánh đã có từ rất lâu trên khắp thế giới từ cả ngót…… ngàn năm trước BC.
Trong các chiến xa thời cổ đại từ Châu Âu, đến châu Á đề có hai bánh xe và càng đàng trước. Chỉ cần thêm một bánh xe đằng sau và thu nhỏ nó lại thì thành xe cut kít. Lạy Chúa! Một phát minh vĩ đại. Đến bây giờ ở các vùng nông thôn xa thành thị của Trung Quốc vẫn còn dùng.
Chán hẳn. Cái này thì không cần tranh chấp bản quyền. Để “phát minh” ra loại xe này, không cần phải có một tư duy trừu tượng cao cấp hơn cái bánh chưng, bánh dày.
6 – Máy ghi địa chấn.
Chỉ riêng cái máy ghi địa chấn này thì tôi tạm thời có thể thừa nhận nó do ông Cheng Heng phát minh ra. Tuy nhiên, nếu nó chỉ được gọi là phát minh vào thời Đông Hán (Có một tài liệu khác tôi xem được – thông qua hình thức truyện tranh thiếu nhi – thì vào đầu nhà Đường. Cũng theo tài liệu này thì chỉ có 8 con rồng cho 8 phương. Không biết con thứ 9 ở đâu ra?). Bởi vì nó chỉ là một cái máy duy nhất và mang tính chuyên dùng. Nhưng hình ảnh con cóc và con rồng trên thuộc về văn minh Lạc Việt, nên tôi vẫn đặt vấn đề hoài nghi nền tảng tri thức xã hội của người Việt cổ ở Nam Dương tử là tiền đề cho phát minh này.
![]() |
![]() |
Nhà thiên văn Chang Heng và chiếc địa chấn kế đầu tiên được ông phát minh. |
![]() |
Máy đo địa chấn Richter. |
Mặc dù đến năm 1935, thang đo địa chấn Richter mới được Charles Richter chế tạo, nhưng trước đó từ lâu người TQ đã tìm cách chế tạo chiếc máy dò động đất đầu tiên của thế giới – địa chấn kế. Nhà thiên văn Chang Heng đã phát minh ra một địa chấn kế vào thời nhà Hán khoảng đầu thế kỷ thứ 2 SCN, và đó là một dụng cụ bằng đồng rất tinh xảo.Đây là một chiếc bình bằng đồng khá nặng; bên ngoài có gắn 9 con rồng cách đều nhau; phía dưới mỗi con rồng là một con ếch há mồm, mặt ngước lên trên. Một quả lắc được treo bên trong chiếc bình, nó sẽ đứng yên cho tới khi nào có một chấn động. Chấn động này sẽ kích hoạt một đòn bẩy làm chuyển động 1 hòn bi trong miệng của con rồng nằm ở phía hướng đến tâm chấn. Hòn bi này sẽ rơi ra khỏi miệng rồng và rớt thẳng xuống miệng con ếch phía dưới. Mặc dù chiếc địa chấn kế đầu tiên này có vẻ thô sơ, nhưng phải đến 1.500 năm sau người phương Tây mới phát minh ra phiên bản địa chấn kế của họ.
Hình tượng rồng dành cho vua và hoàng tộc, cho đến thời Hán không hề được nhắc tới trong Sử Ký của Tư Mã Thiên. Nhưng truyền thuyết lịch sử Việt với danh xưng Lạc Long Quân – Vua rồng Lạc Việt – đã xác định hình tượng rồng được lựa chọn làm biểu tượng của vua từ thời tối cổ trong văn hiến Việt. Trên trống đồng hình tượng rồng cũng đã được thể hiện. Ngay trong bài “Y phục thời Hùng Vương” tôi cũng chứng minh rằng: Đó chính là y phục triều đình Văn Lang và trong đó đã dùng hình tượng rồng trong y phục. Còn hình tượng cóc thì thôi khỏi bàn.
Tất cả những dấu ấn này đã xác minh nền văn hiến Việt một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương Tử. Văn minh Hán đã tiếp thu được những giá trị còn lại ở đây, sau khi văn hiến Lạc Việt bị sụp đổ vào thế kỷ thứ III BC.
7 – Rượu.
Bây giờ đến “rượu”. Món hẩu của đại tiền bối Chí Phèo, người đã để lại di sản văn hóa là cái lò gạch nổi tiếng làng Vũ Đại cho Thiên Sứ. Bởi vậy, Thiên Sứ tôi hiểu giá trị và nguồn gốc của rượu đủ đế xác minh rằng: Chẳng việc gì phải cám ơn nền văn minh Trung Hoa cả. Còn lâu họ mới làm ra rượu. Viết đến đây, thật tội nghiệp cho nền văn minh Trung Hoa, chưng ra mấy cái cổ điển gọi là phát minh đầu tiên của nhân loại, mà xét ra thấy cũng mù mờ. Cái ghê gớm nhất đáng trưng ra – tuy cũng không phải của họ, nhưng ít ra cũng đáng để cho thế giới phải giật minh xem lại – Đó chính là thuyết Âm Dương Ngũ hành. Tuy nó không phải của Trung Quốc, nhưng những kho tàng văn bản đồ sộ trên đất nước này đủ có giá trị đấy. Nhưng cái gì cũng có cái giá của nó.
Bây giờ chúng ta xem lại xem, rượu có đúng là của người Trung Quốc phát minh ra không, khi bài viết xác định điều này:
7. Rượu
![]() |
Đây là thứ đồ uống không thể thiếu trong các cuộc vui. |
Những người thích “nhậu” nên cám ơn người TQ về các phát hiện ra cồn ethanol và isopropyl, cũng như bia, rượu vang, và rượu mạnh. Đây là các thứ đồ uống không thể thiếu trong các cuộc vui của chúng ta ngày nay. Người ta cho rằng việc lên men rượu là kết quả đúc kết từ nhiều quá trình chế biến thực phẩm tương tự có từ trước đó.Theo một số ghi chép, vào khoảng đầu thế kỷ thứ 3 TCN, người TQ đã biết cách tinh chế các loại thực phẩm như dấm và nước tương đậu nành bằng cách cho lên men và chưng cất. Rượu cồn ra đời không lâu sau đó. Tuy nhiên, các phát hiện khảo cổ gần đây cho thấy việc cho lên men thực phẩm và việc sáng tạo ra đồ uống có cồn thậm chí đã có từ trước đó rất lâu. Những mảnh vỡ của một chiếc bình gốm 9.000 năm tuổi có các dấu vết còn sót lại của cồn đã được tìm thấy tại tỉnh Henan. Phát hiện này đã chứng tỏ rằng người TQ là những người đầu tiên biết nấu rượu (trước đây người ta cho rằng người Arab đã sáng tạo ra thức uống có cồn, tuy nhiên phải đến khoảng 1.000 năm sau họ mới biết đến rượu).
Một sự xác định rất chi là “phong long”, lại một thủ thuật dùng chữ latin gọi là địa điểm khảo cổ: Honan? Hồ Nam – Đây chính là một vùng ở Nam Dương Tử. mà 9000 năm trước, có khi chính dân tộc Hán chưa hình thành , chưa nói đến nó có thể sở hữu phát minh này.
Có lẽ, những người bạn của tôi và quí vị độc giả đã nhận thấy một chứng cứ mơ hồ của những kẻ sính khảo cổ và thiếu hẳn tư duy phân tích khi mà chỉ căn cứ vào địa điểm khảo cổ để quyết định sở hữu dân tộc. Tức là sự xác định không gian tuyệt đối hiện đang sở hữu của dân tộc đó và không đếm xỉa tới không gian lịch sử của di vật có thuộc về dân tộc đó không. Tôi thí dụ: Không thể căn cứ vào những di vật khảo cổ trên Úc Châu mà bảo chiếc bumerang là sản phẩm của người Anh khi họ thống trị nơi đây. Bởi vậy, với những tư duy ngớ ngẩn khoác áo học giả ấy chính là những kẻ làm đảo lộn những giá trị của chân lý. Chỉ cách đây hơn 2300 năm, chính các sử gia Trung Hoa xác định giới hạn sinh hoạt của người Hán không vượt qua bờ nam Dương Tử. Chúng ta có thể tìm tư liệu này ngay trong cuốn “Lịch sử Trung Quốc 5000 năm” của các sử gia Trung Quốc viết. Vậy địa danh Honan – Hồ Nam này không thể do tổ tiên của người Hán thống trị vào thời gian đó. Chính sự xập xí xập ngầu của cách phiên âm latin cho tiếng Trung Quốc trong văn bản – khi nó chưa được chuẩn hóa và phổ biến trong văn hóa Việt – làm tác giả có thể dịch sang một nghĩa khác và chỉ một địa danh khác. Nhưng còn một chứng cứ khác thuyết phục hơn nhiều cho cái di vật bkhảo cổ khốn khổ đó, đủ để chứng tỏ rằng: Chính người Việt mới là dân tộc làm ra rượu sớm nhất ở phương Đông.
Điều cốt lõi cấn quán xét là rượu làm bằng chất liệu gì? Tất cả những bợm nhậu trên thế gian này đều xác định ngay: Rượu chủ yếu làm từ gạo. Đây là sản phẩm của các dân tộc dùng gạo làm thực phẩm chính. Và cũng chính là của người Lạc Việt ở nam Dương tử. Cho đến tận ngày hôm nay – khi tôi đang gõ những hàng chữ này – tất cả những người nói tiếng Hoa ở nam Dương tử – trải qua hơn 2000 năm Hán hóa – vẫn chưa bỏ được thói quen ăn cơm so với người Hán chính thống ở phương Bắc ăn mỳ. Cho dù về mặt hình thức, họ nói tiếng Hoa.
Những trẻ em Việt thế hệ thứ hai sinh tại Hoa Kỳ có em gần như không biết nói tiếng Việt, nhưng không có nghĩa chúng là người Anh. Và chúng vẫn ăn cơm chứ không lấy bánh mỳ làm thực phẩm chính. Cho dù, người Việt và gốc Á nói chung so với người Âu – Phi chỉ là thiểu số. Điều này cho thấy rằng: Việc thay đổi thói quen sử dụng lương thực chính của một dân tộc là rất khó.
Đây là một dấu chứng nữa cho thấy người Nam Dương tử không phải là người Hán. Những công trình nghiên cứu về zen di truyền của bác sĩ Trần Đại Sỹ cũng xác minh điều này. Họ có zen của người Lạc Việt. Thậm chí người Nhật Bản, các giáo sư sinh học hàng đầu của họ đã xác định: zen di truyền của người Nhật giống người Việt hơn tất cả các dân tộc khác ở Á Châu – đây là phát hiện khoa học mới nhất – cách đây vài năm (Điều này tôi đã nói từ lâu về nguồn gốc dân tộc Nhật Bản. Cuốn lâu nhất viết về v/d này là “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”. Giáo sư Trần Quang Vũ – sau khi nghiên cứu các tác phẩm của tôi – đã đặt vấn đề liên hệ với các giáo sư Nhật Bản và là người đầu tiên cho tôi thông tin này, khi ông dự hội nghị quốc tế với các giáo sư Nhật. Tôi đã chứng minh rằng: Việc Hán hóa ngôn ngữ và văn tự trải hàng ngàn năm ở nam Dương Tử – là tất yếu cho một đế chế phải có ngôn ngữ và chữ viết thống nhất và chính thống – đã khiến cho các bản văn và ngôn từ của người Việt nơi đây bị thay đổi. Khi mà chỉ mới hơn 40 năm, thế hệ người Việt thứ hai trên đất Hoa Kỳ đã gần như không biết tiếng Việt. Hơn 2000 năm Hán hóa ở bờ nam sông Dương tử, không phải là con số để đọc trong một giây.
Rượu, không phải người Hán sáng tạo từ bột mỳ. Người châu Âu trong thần thoại tối cổ của họ đã có vị thần đầu người minh dê làm ra rượu từ những trái nho. Người Ai Cập cũng sáng tạo ra rượu mà không cần đến văn minh Hán, các vị thần của họ – tức là thể hiện một nền văn minh tối cổ – cũng uống rượu bí tỷ. Một công trình nghiên cứu thiên văn cho thấy lượng phân tử giống như rượu đầy trong vũ trụ.
Ở đây tôi chưa nói đến kỹ thuật nấu rượu phụ thuộc vào chất men. Rượu làm bằng nho và bằng gạo phải có loại men thích hợp mới thành rượu được. Men rượu nho không thể dùng để chế rượu gạo. Thậm chí cùng một chất liệu như nhau là gạo, cùng một công thức men như nhau, nhưng được chế tạo vào thời điểm thời tiết khác nhau cũng ra chất lượng rượu khác hẳn. Ấy thế cho nên rượu gạo của người Việt ở nam Dương tử không phải nhập men rượu từ văn minh Hán. Cái này tôi biết rõ vì ngày xưa nhà bà xã tôi nấu rượu và chính bà ấy đi bỏ rượu bán với tôi.
8 – Diều
Bây giờ đến con diều giấy trẻ em chơi. Bài viết trên mô tả phát minh ra diều của người Hán như sau:
Hai người đàn ông sống ở TQ thời cổ đại chia nhau sở hữu một trong những “bằng sáng chế” nổi tiếng nhất của TQ. Vào khoảng thế kỷ thứ tư TCN, Gongshu Ban và Mo Di, một nhà bảo trợ nghệ thuật và một triết gia, đã sáng chế ra một con diều có hình dạng giống một con chim có thể bay lượn trong gió. Sáng chế này của họ sau đó nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Về sau này, người ta đã cải tiến và thêm vào thiết kế ban đầu của con diều một vài chi tiết để sử dụng nó cho một số mục đích khác ngoài mục đích giải trí. Chẳng hạn như dùng diều để câu cá ở những vùng nước khó tiếp cận. Diều còn được ứng dụng trong quân đội khi người ta dùng chúng như những chiếc “máy bay” không người lái để thả những quả đạn vào công sự của kẻ thù. Vào năm 1232, người TQ đã sử dụng những con diều để rải truyền đơn vào một trại giam tù binh chiến tranh của Mông Cổ, khuyến khích những tù binh TQ đang bị giam giữ ở đây nổi loạn và cướp trại.
Có thể nói rằng, cho đến ngày nay thì người Việt chơi diều nhiều hơn cả. Từ trẻ con đến người lớn. Bây giờ cuộc sống bận rộn với nhiều đồ chơi thể hiện đẳng cấp như tàu bay, cano điều khiển điện tử và game tràn ngập, nên diều chỉ còn ở vùng đồng quê xa thành thị . Nhưng có thể khẳng định rằng: Hình ảnh con diều với tiếng sáo vi vu trên những cách đồng quê đã trở thành một hình ảnh thân thuộc chỉ sau cánh cò bay và lũy tre làng. Những ai lớn tuổi chắc chưa quên hình ảnh cánh diều của tuôi thơ, dù ở ngay nơi thành thị. Tiếng sao diều thậm trí đã trở thành một nghệ thuật gắn liền với cánh diều. Những nghệ nhân Việt tài hoa có thể tạo ra những âm thanh gây xao xuyến trong không gian từ tiếng sao diều của họ. Tại sao diều lại phổ biến trong văn hóa Việt như vậy? Tất nó phải có một truyền thống từ thời rất xa xưa.
Trong bài viết trên – do tiếng Hoa chuyển âm thành tiếng latin chưa được phổ biến – tôi không hiểu Gongshu Banlà ai. Ban thì có thể hiểu là Bản, Gong thì là Công, nhưng Gongshu thì chịu. Nhưng Mo Di thì chắc chắn là Mặc Địch. Đây là người cất công ba năm làm ra con diều bằng gỗ, nhưng chơi một giờ đã hỏng. Một câu chuyện nổi tiếng và bị Khổng tử chê với đám học trò. Tại sao thế nhỉ? Người Việt có làm diều bằng gỗ bao giờ? Họ vót nan diều bằng tre và phất diều bằng giấy. Xa xưa hơn nữa, cánh diều chính làm bằng vải. Vậy thì tại sao Mặc Địch phải cất công gọt con diều bằng gỗ đến ba năm? Tre đâu? Vải đâu mà Mặc Địch phải cầu kỳ đến thế? Và người Việt sáng tạo ra con diều bằng tre với giấy và vải từ bao giờ với bắt đầu từ con diều gỗ của Mặc Địch?
Chính những giá trị văn hóa truyền thống Việt với con diều và cả một nền văn hiến đầy nhân bản, đã xác định rằng: Con diều là một sáng tạo của dân tộc Việt. Chỉ sau khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở miến nam Dương Tử và trải hàng ngàn năm Hán hóa, nghiễm nhiên những giá trị văn hóa này thuộc về văn minh Hán.
Nhưng may thay, tổ tiên anh hùng và bất khuất của người Việt đã phục hưng giống nòi từ thế kỷ X AC, nên những giá trị Việt mới có cơ hội phục hồi.
10 – Lụa
![]() |
Con đường tơ lụa. |
Các đế chế Mông Cổ, Hy Lạp, và La Mã một thời đã từng rất “nóng mặt” với các phát minh quân sự của Trung Quốc như thuốc súng. Tuy nhiên, tơ lụa lại chính là phát minh giúp Trung Quốc cổ đại “hòa giải” với các đế quốc hùng mạnh khác.
![]() |
Một xưởng sản xuất lụa ở TQ xưa. |
Lụa TQ lúc bấy giờ được ưa chuộng đến nỗi nó đã giúp kết nối TQ với các quốc gia khác trên thế giới thông qua việc buôn bán sản phẩm này. Tơ lụa TQ đã “dệt” nên con đường tơ lụa huyền thoại một thời, xuất phát từ TQ sang đến tận Địa trung hải, châu Phi, Trung Đông và châu Âu. Phương pháp sản xuất loại tơ tằm tự nhiên của người TQ đã tồn tại từ cách đây 4.700 năm.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy một cuộn tơ trong một lăng mộ được xây vào thời Laingzhu (kéo dài từ năm 3330 đến năm 2200 TCN). Người TQ lúc bấy giờ đã tuyệt đối giữ bí mật và bảo vệ cẩn thận phát minh của họ, cho tới khi các nhà truyền giáo châu Âu phát hiện ra trứng tằm và đưa chúng về phương.
Trước hết, chúng ta phải xác định rằng: “Con đường tơ lụa” nổi tiếng trong lịch sử văn minh nhân loại chỉ bắt đầu từ thế kỷ thứ II BC, dưới thời Hán Vũ Đế – tức là sau khi Văn Lang sụp đổ hoàn toàn ở bờ nam sông Dương Tử – do Trương Khiên về nước vào năm 126 BC, sau khi đi công du Tây Phương theo lệnh của vua Hán Vũ Đế. Sau đó hàng chục năm sau, con đường tơ lụa nổi tiếng mới hình thành và thịnh vượng hàng trăm năm sau đó.
Và bây giờ chúng ta xét đến tơ lụa có phải do người Trung Hoa phát minh ra không? Có thể xác định rằng: Điều này hoàn toàn không. Bởi vì: Ngay từ thời cổ đại cho đến ngày nay, lụa Hàng Châu và Quảng Đông vẫn là thủ phủ của nghề tơ lụa Trung Hoa. Phía Bắc Dương tử không hề có một địa danh nào có truyền thống nuôi tằm dệt lụa như vậy. Không lẽ sau thế kỷ thứ III BC, người Hán mới đem “phát minh của họ sản xuất đại trà ở Quảng Đông và Hàng Châu? Còn trước đó, họ sản xuất ở đâu bên bờ Bắc Dương tử? Không lẽ nơi tập kết sản phẩm tơ lụa ở Tây An phía Tây Bắc Trung Hoa mà nơi sản xuất lại đặt ở Đông Nam cho nó xa xội vây?
Điều này cho thấy rằng: Nghề trồng dâu nuôi tằm hoàn toàn có xuất xứ từ văn minh Lạc Việt ở bờ nam sông Dương tử và khi Văn Lang sụp đổ, nó nghiễm nhiên thuộc về văn minh Hoa Hạ sau hàng ngàn năm Hán hóa.
Những di tích, di sản còn lại, chứng minh điều này.
Các bạn của tôi đang xem blog này thân mến.
Con người ta vì những bận rộn sinh kế hàng ngày, nên ít ai để ý đến nguồn gốc những phát minh ra cái diều, ra địa chấn kế , ra tơ lụa…vv..Nói tóm lại, nó chỉ là những câu chuyện phiếm trên bàn nhậu, hoặc để chứng tỏ sự uyên bác với các cô gái trẻ ngồi cùng bàn cafe. Bởi vậy, con người thường dễ dãi với sự nhận thức về nguồn gốc của nó. Edison phát minh ra bóng đèn, mọi người đều nói thế và tôi cũng biết thế. Bây giờ người ta phát hiện ra không phải Edison phát minh ra cái đèn. Cũng chẳng có gì đáng quan tâm, nếu bóng đèn không giảm giá và ít hỏng hơn. Cũng biết thế.
Nhưng với lịch sử nền văn minh của cả một dân tộc thì nó lại là một chuyện khác. Nó không còn là chuyện tỏ vẻ với phụ nữ và có cái để nói trên bàn nhậu. Nó không còn là chuyện thơ tình và thơ tán gái.
Huyền thoại về nguồn gốc của cả một nền văn hóa Đông phương đầy bí ẩn – mà cả thế giới này dễ dãi tin là của văn minh Hoa Hạ – đã sụp đổ. Nó thuộc về văn minh Lạc Việt ở Nam Dương tử. Tất yếu, dân tộc này không chỉ sở hữu một học thuyết sẽ là tương lai tri tuệ của nhân loại, như lời tiên tri của bà Vanga. Mà nó còn phải có cả một nền tảng tri thức văn hóa, kinh tế xã hội để duy trì những giá trị siêu việt của nó. Nếu không như vậy thì nó sẽ không thể tồn tại. Chẳng có một thế giới mất điện nhưng lại duy trì được kiến thức liên quan đến máy vi tính.
Cho nên, Thiên Sứ tôi viết bài này, chính là xác định những giá trị kinh tế văn hóa xã hội và những gía trị tri thức làm nền tảng của một dân tộc sở hữu đích thực những gía trị của thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Nhân loại sẽ đi về đâu, nếu như những nguồn tài nguyên ngày càng cạn kiệt và con người hiện đại đã nhìn thấy rõ và không cần phải vận dung tư duy trừu tượng cao cấp của con người. Hoặc là chiến tranh để giải quyết sự sinh tồn khi trái đất ngày càng hẹp lại và tài nguyên ngày càng ít đi? Hoặc là con người hãy xem xét lại chính mình để sống hài hòa với thiên nhiên và tồn tại với những giá trị nhân bản?
Nếu như bài viết trên khuyên con người phải nhớ ơn nền văn minh Hoa Hạ đã phát minh ra những thứ như rượu, giấy…vv….thì chính nền văn minh Hoa Hạ phải biết ơn nền văn hiến Lạc Việt. Thế giới này muốn thoát khỏi hiểm họa trước mắt thì con đường duy nhất là :
Tôn vinh Việt sử gần 5000 năm vắn hiến – chủ nhân đích thực của thuyết Âm Dương Ngũ hành – Lý thuyết thống nhất vũ trụ.
Thiên Sứ nói to quá. Vâng! Nhưng rất tiếc, nó chỉ vang trong cái lò gạch ở làng Vũ Đại.