Mở bể than 210 tỷ tấn: Trách nhiệm giải trình

7/09/2009 06:08 (GMT + 7)

(TuanVietNam)- Mở bể than không thể chỉ tính đến việc giải bài toán về năng lượng mà còn phải tính đến bài toán về giữ đất lúa và môi trường sống cho người nông dân. Chính phủ phải giải trình một cách đầy đủ để các ĐBQH có đủ điều kiện cân nhắc. 
>> Mở bể than 210 tỷ tấn: Tiềm năng lớn, rủi ro cao
>> Mở bể than 210 tỷ tấn: Không đánh đổi lúa lấy than

Trao đổi với Tuần Việt Nam về Đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của QH Lê Quốc Dung nhấn mạnh: Mở bể than không thể chỉ tính đến việc giải bài toán về năng lượng mà còn phải tính đến bài toán về giữ đất lúa và môi trường sống cho người nông dân. Nếu không chúng ta sẽ phải trả giá đắt mà nguồn thu được từ than không thể bù đắp nổi… Khai thác than và giữ đất lúa 

Thưa ông, ông nghĩ thế nào về đề án phát triển bể than đồng bằng sông Hồng được đưa ra vào thời điểm này?

Ông Lê Quốc Dung: Trước hết phải thấy rằng, nhu cầu về nguyên, nhiên liệu phục vụ cho công nghiệp hóa ở nuớc ta hiện rất lớn, trong khi các nguồn đều có giới hạn. Chỉ còn nguồn than, nhưng mỏ than ở Quảng Ninh thì trữ lượng cũng hạn chế, khai thác đạt hơn 40 triệu tấn/năm trong khi nhu cầu của Việt Nam lớn, dự báo năm 2015 có thể vọt lên đến 90 triệu tấn. Để đáp ứng nhu cầu trong nước thì sắp tới lượng than xuất khẩu sẽ không còn nhiều.

Hơn nữa nếu phát triển nhiều nhà máy điện chạy bằng than thì việc Việt Nam không còn xuất khẩu than mà phải nhập than về là điều khó tránh khỏi. Qua quá trình thăm dò, chúng ta phát hiện có một bể than ở Đồng bằng sông Hồng rất lớn, với trữ lượng khoảng 210 tỷ tấn. Đồng ý cần phải có thêm nguồn than để giải quyết bài toán năng lượng nhưng có quá nhiều vấn đề đang đặt ra cho đề án này.

Cụ thể những vấn đề đó là gì?

 

Ông Lê Quốc Dung. Ảnh: Tự Minh.

Vấn đề lớn nhất là mỏ than này nằm ở vùng đồng bằng trồng lúa với diện tích đất đai phì nhiêu màu mỡ. Mà diện tích trồng lúa hiện nay ở phía Bắc là tối quan trọng về mặt chiến lược, cả trước mắt và lâu dài. Khai thác than mà vẫn giữ được đất lúa là một bài toán cực kỳ khó khăn. Vì vậy 2 bài toán đặt ra là bài toán nguyên liệu và giữ đất lúa. Bên cạnh đất lúa lại là môi trường sống của rất nhiều người dân. Khó có thể giải quyết 2 bài toán này cùng lúc.

Mặt khác, khi khai thác than có thể sẽ gây lún sụt đất. Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam có đưa ra phương án sẽ bồi hoàn đất trong quá trình lún sụt. Nhưng việc bồi hoàn đất này cũng không hề dễ, nhất là bồi hoàn đất phải bảo đảm độ màu mỡ để trồng lúa. Nói thật, nếu lấy đất khác đổ vào thì làm gì có đất màu mỡ, chỉ có đất cát, mà đất cát thì sản xuất nông nghiệp kiểu gì? Hai nữa là môi trường nước ngầm sẽ giải quyết như thế nào. Nếu hỏng tầng nước ngầm thì sẽ ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân.

Còn môi trường mặt đất thì như thế nào? Khai thác lên, còn các phế thải lấy lên thì có giải quyết được không. Đấy là chưa kể đến vùng đồng bằng sông Hồng nền đất xốp và mềm, nguồn nước ngầm lớn, hút đi không dễ thì liệu chúng ta có tháo khô được để khai thác than hay không? Hiện nay, về mặt khoa học, chúng ta chỉ có thể bơm tháo khô được lượng nước 6000 – 10.000 m3/h. Hút nước đi đã khó, lại còn xử lý lượng nước này như thế nào để không ảnh hưởng đến sinh hoạt, đồng ruộng, cây trồng…

Có thể thấy môi trường đất mặt, đất ngầm, nước mặt, nước ngầm là không dễ xử lý và có xử lý được cũng rất nan giải… Chúng ta nói có học tập kinh nghiệm khai thác của nước ngoài nhưng phải chú ý là điều kiện môi trường của họ như thế nào, đất của họ cứng và đặc biệt không có đất lúa…

Còn vấn đề quản lý khai thác than thì sao thưa ông? Khi mà quản lý khai thác than ở Quảng Ninh đang có khá nhiều bê bối?

Thực ra nếu mở bể than đồng bằng sông Hồng thì về công nghệ khai thác sẽ khác mỏ than ở Quảng Ninh. Công nghệ khai thác khác nhau nên quản lý cũng khác nhau. Ở Quảng Ninh chủ yếu là khai thác lộ thiên, khai thác bởi nhiều thành phần kinh tế. Nhưng nếu khai thác than ở đồng bằng sông Hồng thì công nghệ không cho phép khai thác lộ thiên mà lại là hóa khí và hóa lỏng nên chủ yếu các tập đoàn kinh tế lớn mới có thể làm được. Và ai làm phải có giấy phép và công nghệ, không thể tự phát như vùng Quảng Ninh. Nên ở đây sẽ có thuận hơn về quản lý.

Tuy nhiên than khai thác ở đây chưa thể nghĩ đến xuất khẩu mà chỉ dùng trong nội địa vì sản phẩm của công nghệ hoá khí là chạy điện trực tiếp, hoá lỏng là than bùn thì phải qua chế biến.

Vậy quan điểm của ông như thế nào, có nên khai thác bể than đồng bằng sông Hồng không khi có quá nhiều vấn đề đang đặt ra như thế?

Có được nguồn tài nguyên là quý, và nếu khai thác được thì về mặt Nhà nước, cộng đồng, nguời dân đều được hưởng lợi nhất định vì nó tạo ra nguồn năng lượng, tăng nguồn thu, sản phẩm hàng hóa, công ăn việc làm… Nhưng quan điểm của tôi là phải tính đến nhiều con đường.

Nếu trong lúc khó khăn và giới hạn về điều kiện kinh tế thì việc khai thác một phần than để bảo đảm nguồn năng lượng sử dụng cho quá trình phát triển là cần thiết nhưng giải quyết nguồn nhiên liệu chỉ bằng than cũng là bất đắc dĩ, là không ổn. Vì xét về mặt tài nguyên, sử dụng không có kế hoạch thì sẽ cạn kiệt. Ngoài ra còn vấn đề môi trường vì than tạo ra nhiều khí thải, gây ra biến đổi khí hậu, nên cần thiết phải tìm thêm con đường khác để giải quyết vấn đề năng lượng.

Do đó phải khai thác thử trong diện hẹp, làm từng bước và nhìn nhận thận trọng. Và cũng phải thấy được rằng, dù có khai thác lên thì lợi ích không thể thoả mãn vì chúng ta cũng chỉ vắt cạn kiệt tài nguyên để đưa vào sử dụng. Nên nếu khai thác cấp tập quá, ồ ạt quá, nhanh quá chắc chắn phải trả giá bằng môi trường. Nhưng để khai thác dù chỉ một phần trữ lượng than ở đồng bằng sông Hồng thì cũng nhất thiết phải giải quyết được mấy bài toán đã nêu trên.

Nhưng có ý kiến cho rằng, giữa lúa và than thì than mang lại hiệu quả kinh tế lớn hơn nhiều?

Đúng là nếu tính giá trị đất lúa so với than thì không là gì nhưng để ra được đất sản xuất lúa thì sự bồi đắp cấu thành mất hàng nghìn năm. Còn nếu phá hủy nó để khai thác than bằng mọi giá thì hàng nghìn năm sau cũng không thể khôi phục được. Khai thác than có thể cải thiện đời sống cho người dân vài ba chục năm nhưng sau đó thì sống dựa vào đâu? Người Việt Nam đông, đất trồng lúa không nhiều, lại đang có nguy cơ thu hẹp lại bởi nhiều dự án, trong khi nhu cầu lương thực trên thế giới ngày càng lớn. Do đó chúng ta phải biết quý đất trồng lúa .

Quản chặt xuất khẩu than

Theo dự tính, từ năm 2013, Việt Nam phải nhập khẩu than mới đủ cho tiêu dùng trong nước. Nhưng hiện tại chúng ta vẫn xuất khẩu than? Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Có luồng ý kiến cho rằng, với các mỏ than đã mở, khai thác lên chưa dùng hết thì phải xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, giải quyết công ăn việc làm cho người dân. Nhưng tôi nghĩ là không nên khai thác một bước quá xa như thế, không nên xuất khẩu quá nhiều mà phải chủ động điều tiết nguồn than khai thác để xuất khẩu ít đi, còn nhu cầu trong nước bao nhiêu thì khai thác đến đó.

Quan điểm thứ hai là không nên xuất khẩu than nữa. Điều này cũng đúng vì trữ lượng than ở Quảng Ninh cũng đến lúc cạn kiệt. Mặt khác chúng ta đang bán than với giá rẻ, trong khi dự báo thời điểm nhập vào thì sẽ là giá cắt cổ. Do đó nhất thiết phải điều tiết nguồn than xuất khẩu.

Ảnh minh hoạ

Khai thác tài nguyên không phải là một phương pháp làm giàu tối ưu. Nhưng hình như chúng ta đang mắc ở chỗ này?

Kinh nghiệm của nhiều quốc gia ở nhiều giai đoạn, nếu chỉ dựa vào tài nguyên do thiên nhiên ban tặng thì phát triển không bền vững và chất lượng cũng không cao, lại phải giải quyết nhiều vấn đề KT- XH kéo theo.

Tài nguyên ở Việt Nam thì phong phú thôi chứ không phải là nhiều. Cần khai thác tài nguyên nhưng dựa vào nó cũng chỉ mức độ thôi. Và tiết kiệm tài nguyên đang là xu hướng mà nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng.

Còn để phát triển đất nước thì người Việt Nam có truyền thống cần cù sáng tạo nên ta cần có cơ chế chính sách tạo điều kiện động lực cho người lao động phát huy năng lực. Chứ hiện tại, chúng ta vẫn nặng về khai thác tài nguyên nhiều hơn. Như trong đầu tư thì nặng đầu tư về vốn liếng, mà vốn thì nặng về ngân sách Nhà nước.

Trong phát triển các nguồn lực thì cũng nặng về nguồn lực tài nguyên nhiều hơn. Trong khi đó, nguồn lực con người rất cần chú trọng. Phát huy vai trò con người càng sớm thì càng tốt, càng tạo được nền móng vững chắc cho sự phát triển KT-XH.

Nhưng phải thay đổi tư duy này từ đâu?

Phải từ các nhà lãnh đạo quản lý. Các Tập đoàn kinh tế làm kinh doanh thì thường tính đến lợi nhuận mà ít chú ý đến lợi ích môi trường, đến sự cân bằng trong phát triển KT- XH. Nên các nhà lãnh đạo quản lý Nhà nước phải tính như thế nào, không thể các Tập đoàn trình như thế nào, lãnh đạo nhất trí như thế. Ở đây cũng cần phát huy ý kiến phản biện của xã hội, từ các cấp lãnh đạo, các nhà khoa học đến người dân, doanh nghiệp…

Trách nhiệm giải trình

Nếu đề án được đưa ra QH thì QH sẽ là “chốt chặn” cuối cùng quyết định việc có thực hiện hay không? 

QH hiện nay đang có nhiều quyết định tốt. Nhưng vấn đề là phải cung cấp cho đại biểu QH những thông tin, ý kiến xác đáng. Đặc biệt, khi bấm nút thông qua thì chúng ta lấy biểu quyết số đông nhưng khi tiếp thu giải trình thì cần phải cân nhắc vì có thể số ít ý kiến lại có căn cứ và là căn cứ rất tốt. Nên có rất nhiều yếu tố để đi đến quyết định đúng đắn.

Vậy, trách nhiệm của Chính phủ trong việc giải trình như thế nào?

Chính phủ phải giải trình một cách đầy đủ thì các ĐBQH mới có đủ điều kiện cân nhắc bấm nút. Tránh tình trạng tài liệu thì đưa ít, thời gian thì gấp gáp, đại biểu không có đủ điều kiện nghiên cứu, và nếu thời gian thảo luận tại QH lại ngắn nữa thì chúng ta dễ đi đến kết luận hình thức.

Tuy vậy, các đại biểu QH cũng phải thực sự quan tâm đến vấn đề này để có trách nhiệm với quyết định của mình, với sự phát triển của đất nước. Trên cơ sở phát huy thảo luận bàn bạc kỹ càng của QH cùng với việc có nhiều thời gian trao đổi ý kiến, thống nhất ý kiến thì tôi tin QH sẽ làm đúng chức năng đại diện của nhân dân và cơ quan quyền lực.

Xin cảm ơn ông!

  • Tự Minh (thực hiện)

Bài này trên tuanvietnam có mục “Ý kiến bạn đọc”. Bởi vậy Sư Thiến tôi đưa vào đây để gọi là ý kiến, ý cò. Nhưng mà đang có khách. Lát nữa quỡn thì viết. Không thì thôi.

Bài này đã được đăng trong Các Đề Tài Khác. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.