Liệu Mỹ có nên ‘kiềm tỏa” Trung Quốc?

Tác giả: Joseph S. Nye
Tuanvietnam.vn

Bài đã được xuất bản.: 09/07/2011 05:00 GMT+7

Tháng Bảy này đánh dấu 40 năm sự kiện chuyến thăm bí mật đến Bắc Kinh của cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger, chuyến đi đã khởi động cho tiến trình hàn gắn mối quan hệ đã rạn vỡ trong suốt 20 năm trước đó giữ Mỹ và Trung Quốc. Chuyến đi này và chuyến thăm sau đó của Tổng thống Richard Nixon là một biểu tượng cho cuộc tái tập hợp lực lượng thời Chiến tranh Lạnh. Mỹ và Trung Quốc đã gác qua một bên các thù hằn để cùng nhau hợp tác thành công kiềm tỏa đà mở rộng ảnh hưởng của Liên bang Xô viết.

Giờ đây khi mà Liên Xô chỉ còn là quá khứ, sức mạnh  Trung Hoa ngày càng tăng tiến, một số người Mỹ đã biện luận rằng sự trỗi  dậy của Trung Quốc không thể mang đến hòa bình và vì thế Mỹ nên thực  hiện chính sách kiềm tỏa Nước Cộng hòa Nhân dân. Thực sự một số quan  chức Bắc Kinh cũng đã nhìn nhận đó là chính sách hiện này của  Washington. Họ đã sai.
Hơn hết, cuộc ngăn chặn Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh diễn ra trong  bối cảnh các quan hệ thương mại và xã hội gần như bằng không. Ngày nay,  mọi thứ diễn ra ngược lại, Mỹ không chỉ có quan hệ thương mại “đồ sộ”  với Trung Quốc mà còn có các quan hệ xã hội mở rộng, trong đó có việc  125.000 sinh viên Trung Quốc hiện đang theo học tại các đại học Mỹ.
Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, cuộc kiềm tỏa Liên Xô khởi nguồn từ  chuyến thăm của Kissinger không còn là cơ sở của quan hệ Mỹ – Trung. Hơn  thế, quan hệ với Trung Quốc đã trở nên lạnh nhạt sau sự kiện Thiên An  Môn năm 1989 và chính quyền Clinton cũng đã đưa ra một cách tiếp cận mới  cho quan hệ với cường quốc Châu Á này.
Khi tôi xem xét Đánh giá chiến lượng Đông Á của Lầu Năm góc năm 1994,  chúng tôi đã phản đối ý tượng kiềm tỏa Trung Quốc vì hai lý do. Nếu  chúng ta đối xử với Trung Quốc như là một kẻ thù, chúng ta đang tự đảm  bảo rằng chúng ta sẽ có một kẻ thù trong tương lai. Nếu chúng ta xem  Trung Quốc như một người bạn, chúng có thể không đảm bảo được sẽ có một  mối quan hệ hữu nghị nhưng ít nhất chúng ta có thể giữ được khả năng của  những kết quả tốt đẹp hơn.
Thêm vào đó, việc thuyết phục các quốc gia khác tham gia vào liên  minh kiềm tỏa Trung Quốc cũng trở nên khó khăn trừ phi Bắc Kinh “bắt  nạt” các nước này như điều mà Liên Xô đã từng làm sau Chiến tranh thế  giới thứ hai. Chỉ có Trung Quốc, bằng cách hành xử của minh, có thể dẫn  đến việc những quốc gia khác thực hiện chính sách kiềm tỏa đối với nước  láng giềng to lớn.
Thay vì kiềm tỏa, chiến lược mà chính quyền Clinton từng áp dụng có  thể được gọi là “can dự và rào dậu” – giống như khẩu hiệu thời Ronald  Reagan “tin tưởng nhưng có kiểm chứng” khi tiến hành thương lượng các  thỏa thuận chiến lược với Liên Xô. Một mặt, Mỹ ủng hộ việc Trung Quốc  gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, chấp nhận các hàng hóa và hoan  nghênh những chuyến thăm từ Bắc Kinh. Một mặt, Tuyên bố  Clinton-Hashimoto tháng 4/1996 đã khẳng định rằng Hiệp ước An ninh Mỹ –  Nhật không chỉ là một tàn tích của Chiến tranh Lạnh mà còn là cơ sở cho  một Đông Á ổn định và phồn vinh.

Chính quyền Clinton cũng đã từng cải thiện quan hệ với Ấn Độ, một  chiến lược nhận được sự ủng hộ của cả hai đảng trong Quốc hội Mỹ. Chính  quyền Bush đã tiếp tục cải thiện quan hệ song phương này trong khi làm  sâu sắc và chính thức hóa cuộc đối thoại kinh tế  với Bắc Kinh. Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ khi đó, ông Robert Zoellick đã  tuyên bố rõ là Washington sẽ chấp nhận một Trung Quốc trỗi dậy như một  “cổ đông có trách nhiệm”. Chính sách đó đã tiếp tục định hướng cho chính  quyền Obama, vốn đã mở rộng các cuộc tham vấn kinh tế thường niên với  Trung Quốc sang cả những vấn đề an ninh.
Như tôi đã viết trong cuốn sách mới đây Tương lai của Quyền lực, một  trong những nội dung của sự chuyển dịch quyền lực chính của thế kỷ 21 là  việc Châu Á hồi sinh. Năm 1800, Châu Á chỉ chiếm có ½ dân số thế giới  và 50% GDP toàn cầu. Đến năm 1900, cuộc cách mạng công nghiệp tại Châu  Âu và Bắc Mỹ đã khiến “phần hùn” của Châu Á chỉ còn 20%. Đến giữa thế kỷ  này, Châu Á lại một lần nữa quay trở lại chiếm một nửa dân số và GDP  của toàn thế giới.
Đây là một quá trình tiến hóa tự nhiên và đáng hoan nghênh vì nó đã  giúp hàng trăm triệu người thoát khỏi đói nghèo. Thế nhưng cùng lúc nó  đã làm dấy lên nỗi sợ rằng Trung Quốc có thể trở thành một mối đe dọa  đối với Mỹ.
Các nỗi sợ này dường như đã bị phóng đại, đặc biệt khi người ta xem  Châu Á không phải là một thực thể. Thực sự châu lục này có cán cân quyền  lực riêng. Nhật Bản, Ấn Độ, Việt Nam và các nước khác không muốn bị  Trung Quốc thống trị và do đó hoan nghênh sự hiện diện của Mỹ trong khu  vực. Trừ phi Trung Quốc phát triển “quyền lực mềm”, sự bành trướng về  quân sự và kinh tế của nước này có thể sẽ làm các nước láng giềng lo sợ  và tìm kiếm các liên minh để cân bằng lực lượng. Giống như Mexico và  Canada đã tìm kiếm các liên minh với Trung Quốc để cân bằng quyền lực  với Mỹ tại Bắc Mỹ.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009, do Trung Quốc đã phục hồi  nhanh và tiếp tục tăng trưởng kinh tế 10%/ năm, một số quan chức và bình  luận viên của nước này đã thúc giục Bắc Kinh thực thi một chính sách  đối ngoại cương quyết hơn để phản ánh sức mạnh Trung Hoa mới. Nhiều  người đã lầm tưởng rằng Mỹ đang trên đà suy vong và cuộc khủng hoảng vừa  qua là một cơ hội chiến lược của Trung Quốc.
Trung Quốc đã bắt đầu gia tăng các đòi hỏi chủ quyền trên Biển Đông  cũng như leo thang tranh chấp biên giới bấy lâu nay với Ấn Độ. Kết quả  nhãn tiền là trong hai năm qua, Trung Quốc đã làm cho quan hệ của nước  này với Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc, Việt Nam và nhiều nước khác xấu đi rõ  rệt – một minh chứng đáng kể khẳng định tiên đề chiến lược mà Mỹ từng  nêu ra: “Chỉ có Trung Quốc mới kiềm tỏa được Trung Quốc”.
Nhưng sẽ là một sai lầm nếu chỉ tập trung vào phần phòng thủ trong  chiến lược của Mỹ. Washington và Bắc Kinh (cũng như nhiều nước khác) sẽ  được nhiều hơn từ việc hợp tác trong các vấn đề liên quốc gia. Một quốc  gia duy nhất không thể đưa ra và thực hiện những giải pháp cho sự ổn  định tài chính toàn cầu, biến đổi khí hậu, khủng bố mạng hay dịch bệnh  nếu không có quan hệ hợp tác như thế.
Nếu quyền lực là khả năng đạt được kết quả mong muốn thì điều cần nhớ  là đôi khi quyền lực của chúng ta sẽ lớn hơn nếu chúng ta cùng hành  động với các nước khác thay vì đơn thuần “vượt lên” các nước. Đó là một  định đề quan trọng cho chiến lược “quyền lực thông minh” của thế kỷ 21  và không thể bị đóng khung trong ý niệm về một sự kiềm tỏa, Khi  Kissinger đặt chân xuống Bắc Kinh cách đây 4 thế kỷ, ông ta đã bắt đầu  không chỉ một sự chuyển đổi xu hướng trong Chiến tranh Lạnh mà cả một kỷ  nguyên mới cho sự can dự Mỹ  – Trung.

Joseph S. Nye, Jr. là Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng dưới chính  quyền Clinton và hiện là Giáo sư Đại học Havard – tác giả cuốn sách  Tương lai của Quyền lực

   Nam Sơn dịch từ project – syndicate
===================================
Vui nhỉ! Hoặc là ông này đang nói dối! Hoặc là ông ta chẳng biết gì cả.

Bài này đã được đăng trong Bình luận. Đánh dấu đường dẫn tĩnh.